Đại cương
Thuốc trừ sâu là 1 loại hóa chất không thể thiếu dung trong nông nghiệp song nó có nhiều tác hại mà người ta vẫn đã và đang sử dụng mà không biết rõ. Thuốc trừ sâu hiện nay có chế độ bảo quản và cơ chế sản xuất chưa chặt chẽ, chế độ bảo hộ lao động không tốt gây nhiều bất lợi cho sức khỏe
Thuốc trừ sâu gồm 2 loại như sau Phospho hữu cơ và Carbamate. Ngộ độc thuốc trừ sâu nhóm kháng men Cholinesterase hiện nay rất hay gặp, nhất là ở nông thôn hay sử dụng cho nông nghiệp trông trọt. Triệu chứng và xử trí giữa 2 loại có khác nhau. Đuờng ngộ độc chủ yếu là đường tiêu hóa do uống để tự tử, đôi khi qua da hoặc qua đường hô hấp do công nhân, nông dân tiếp xúc với thuốc trừ sâu mà không có biện pháp bảo hộ lao động phù hợp.
Ngộ độc thuốc trừ sâu nhóm kháng men Cholinesterase sẽ gây tỷ lệ tử vong rất cao nên không được chủ quan. Nếu điều trị kịp thời và đầy đủ có thể cứu sống nhiều bệnh nhân tưởng như đã tuyệt vọng.
Độc tính
Thuốc Ngấm dễ dàng qua đường tiêu hóa, hô hấp, da và niêm mạc. Thủy phân nhanh trong môi trường kiềm và bền vững trong môi trường axit, vì vậy khi ngộ độc qua đường tiêu hóa sẽ hấp thu nhanh. Độc tính từng loại có khác nhau đôi chút nhưng tác dụng độc với cơ thể thì đều giống nhau do cơ chế có chất kháng men Cholinesterase.
Cơ chế bệnh sinh
Acetylcholin là chất hóa học trung gian có ở các hậu hạch thần kinh và nhiều hệ khác. Men Acetylcholinesterase thủy phân Acetylcholin thành Acid acetic và Cholin.
Các thuốc trừ sâu nhóm kháng men Cholinesterase khi vào máu gắn luôn vào receptor Cholinesterase làm cho Acetylcholin tăng lên ở nhánh tận cùng của các dây thần kinh gây độc mạnh. Tác dụng trên lâm sàng của Phospho hữu cơ và Carbamate không khác nhau, chỉ khác nhau về thời gian gắn, có 4 cấp gắn:
Vùng đối giao cảm hậu hạch bị kích thích trước gây ra các triệu chứng đối giao cảm (hội chứng Muscarin):
Nhẹ: Tức thở, ra mồ hôi, buồn nôn, chán ăn.
Bệnh nhân nôn mửa chảy máu dạ dày, đi ngoài phân đên
Hội chứng này không rõ nếu ngộ độc nhẹ.
Các tấm thần kinh cơ bị kích thích trong ngộ độc nặng:
Lúc đầu rung giật thớ cơ, sau đó liệt cơ, liệt mềm, cả cơ hoành cũng bị gây liệt hô hấp.
Bệnh nhân vã mồ hôi như tăm nhưng như thế không đáng ngại
Thần kinh trung ương cũng bị kích thích gây co giật, liệt hô hấp trung ương, hôn mê.
Bệnh nhân loạn nhịp tim
Men Butyrocholinesterase có trong huyết tương và các tổ chức không phải là thần kinh, tham gia vào việc thủy phân một số lớn các Ester khác trong dịch thể, không có tác dụng lên Acetylcholin ở các thụ thể của thần kinh tự chủ và thần kinh trung ương. Vì vậy Butyrocholinesterase còn được gọi là Cholinesterase giả, không đặc hiệu hay Cholinesterase huyết tương.
Hoạt tính của Cholinesterase được phục hồi trong 30 ngày đối với men giả và trong 90-100 ngày đối với men thật. Men Cholinesterase huyết tương phục hồi tương ứng với sự phục hồi trên lâm sàng, vì vậy thường định lượng Cholinesterase huyết tương để theo dõi lâm sàng.