Chất đẳng trương

0
1988
chất đẳng trương
Rate this post

Chất đẳng trương

chất đẳng trương

1, Khái niệm

Khi trộn tế bào máu với dung dịch natri clorid 0,9% sau một thời gian quan sát các thế bào máu dưới kính hiển vi thấy các tế bào máu vẫn giữ nguyên kích thước và hình dạng ban đầu của nó. Người ta nói dung dịch natri clorid 0,9% đẳng trương với máu

Khi trộn tế bào máu với dung dịch natri clorid 2% sau một thời gian quan sát các tế bào máu dưới kính hiển vi thấy các tế bào máu bị co đét lại đủ nước trong lòng tế bào đã khuếch tán qua màng thế bào để pha loãng dung dịch muối bao quanh tế bào, nhằm lập lại cân bằng về áp suất thẩm thấu 2 bên màng. Dung dịch natri clorid 2% la dung dịch ưu trương với máu

Nếu tế bào máu được phân tán trong dung dịch natri clorid 0,2 % hay trong nước cất người ta thấy tế bào máu bị phồng lên thậm chí bị vỡ ra do sự chênh lêch áp suất thẩm thấu giữa trong và ngoài tế bào máu nên nước đã khuếch tán từ dung dịch vào trong lòng tế bào máu. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng phá máu và những dung dịch như vậy được gọi là các dung dịch nhược trương với máu. Như vậy một dung dịch đẳng trương với máu là dung dịch không làm biến đổi hình dạng thể tích của tế bào máu và có áp suất thẩm thấu và độ hạ băng điểm giống như của máu. Các dung dịch đẳng trương khi tiếp xúc với tế bào máu của các mô trong cơ thể không làm thay đổi hình dạng tế bào và không gây đau đớn hay khó chịu.

2, Đẳng trương và đẳng thẩm áp

Màng tế bào máu không phải là một màng bán thấm tuyệt đối. Vì vậy không chỉ có các phân tử nước mà cả các phân tử của một số chất tan như ure, amoni clorid… cũng có thể khuếch tán qua màng. Xét trường hợp dung dịch acid boric 2% là một dung dịch đẳng thẩm áp có áp suất thẩm thấu bằng áp suất thẩm thấu của huyết tương và có độ hạ băng điểm của huyết tương nhưng khi trộn với máu thì thấy tế bào máu bị vỡ rất nhiều. Sở dĩ tế bào máu bị vỡ là do các phân tử acid boric đã khuếch tán qua màng vào trong lòng tế bào máu giống như khi trộn tế bào máu với nước nên đã gây phá máu rất mạnh. Như vậy một dung dịch đẳng thẩm áp xác định bằng phương pháo vật lý chưa đủ để kết luận dung dịch đó có đẳng trương với máu hay không mà phải tiến hành nghiệm pháp hematocrit. Tóm lại một dung dịch thực sự đẳng trương với máu khi dung dịch đó có áp suất thẩm thấu là 7,4 và độ hạ băng điểm là -0.52 và không làm thay đổi thể tích của hồng cầu trong nghiệm pháp hematocrit.

3, ý nghĩa

khi tiêm một thuốc không đẳng trương do hiện tượng thẩm thấu tế bào mô tại nơi tiêm sẽ bị tổn thương gây đau thậm chí gây hoại tử tổ chức tại nơi tiêm gây phá máu và có thể gây rối loạn điện giải. vì vậy khi xây dựng công thức phải tính được lượng chất tan sẽ thêm vào để đẳng trương hóa dung dịch thuốc tiêm. tuy nhiên vẫn có một số thuốc tiêm không đẳng trương khi đó cần phải lưu ý đường tiêm thuốc.